Nhắc đến đàn tranh thì nếu như ai trong chúng ta là 1 kẻ nghiện phim kiếm hiệp Trung Hoa thì ắc hẳn sẽ từng ít nhất 1 lần nhìn qua loại đàn này. Nó hầu như xuất hiện rất nhiều trong những bộ phim cổ trang, kiếm hiệp. Làm tô đậm nét cổ của loại đàn này và loại đàn cũng có 1 lịch sử khá lâu đời. Có thể khi nghe sơ qua thì các bạn sẽ cảm thấy đàn này là cổ hơn cả đàn Đàn Tranh Việt Nam nhưng đàn Tranh của VIệt Nam mình cũng bắt nguồn từ loại đàn này mà ra. Vậy loại đàn này là gì ? Sau đây chúng ta sẽ bắt đầu tìm hiểu về nó nhé.
1. Đàn Cổ Tranh Là Gì ?
Đàn cổ tranh được gọi là cổ cầm hay còn được gọi là đàn Guzheng. Có nguồn gốc từ Trung Quốc với lịch sử hơn 2.500 năm, trong suốt quá trình phát triển, có nhiều loại Guzheng, bao gồm 12 loại, 13, 18 hoặc 23, 25 các loại chuỗi. Mỗi vùng có số lượng dây khác nhau.
Guzheng được người Trung Quốc gọi là Guzheng, được sáng chế vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc, Guzheng vẫn giữ nguyên giá trị truyền thống vượt thời gian và trở thành nhạc cụ tượng trưng tiêu biểu có nhiều người theo học nhất Trung Quốc.
Ngoài ra, họ đàn tranh có cả chi kéo và chi gõ. Loại 16 dây nên đàn còn có tên gọi là đàn Thập lục. Nay đã được tân tiến thành 21 - 25, 26 dây (cổ tranh của Trung Quốc).
So với nhiều loại nhạc cụ truyền thống khác, đàn Guzheng vẫn giữ nguyên vẹn hình dạng, cách chơi và màu sắc. Loại nhạc cụ của người Trung Hoa được tìm thấy ở thành phố Dương Châu trước kia nổi tiếng là có truyền thống chơi đàn tranh Guzheng hay nhất. Bởi vì nhà nào có con gái đều cho học đàn tranh “thiên gia hữu nữ tiên giáo khúc”.
2. Cấu tạo đàn Cổ Tranh
Thân là hình hộp dài.
Khung đàn dài 110 – 120 cm có hình thang
Đầu lớn có lỗ rộng khoảng 25 – 30 cm và con chắn để mắc dây.
Đầu nhỏ rộng khoảng 15 – 20 cm gắn 16 tới 25 khóa lên dây, có hướng chéo qua mặt đàn (có loại đàn sắt tới 50 khoá).
Dây: có 16 dây còn gọi là Thập Lục. Nay đã được tân tiến thành 25 dây.
Nguyên liệu mặt đàn làm bằng ván gỗ dày khoảng 0,05 cm uốn hình vòm.
Ngựa đàn (gọi là con nhạn) nằm ở khoảng giữa, được chéo ngang để gác dây và có thể di chuyển điều chỉnh âm thanh dễ dàng.
Đàn tranh có cấu trúc là đàn sắt gồm 25 đến 50 ngựa đàn, được mắc tương ứng với 25 đến 50 dây.
Dây đàn có thể bằng sắt hoặc bằng kim loại khác được cuộn chặt cố định bằng 4 trục đàn lớn.
Khi chơi đàn, người chơi thường đeo ba móng gẩy dài vào ngón cái, trỏ và ngón giữa của tay phải để gẩy.
Móng gẩy được làm bằng các nguyên liệu khác nhau như kim loại hoặc sừng.
Nguyên liệu thân đàn được làm bằng gỗ cây phượng.
Âm thanh trong trẻo, sáng sủa và điệu nhạc vui tươi gồm 1 hộp âm thanh hình chữ nhật, 1 bề mặt trong một đường cong với chuỗi chặt chẽ. Ngày nay, loại Đàn cổ tranh hiện đại có đến 21 dây đàn. Ngoài ra còn có loại 12, 13, 18 hoặc 23, 25 dây.
3. Cách Phần Biệt Đàn Tranh Việt Nam Và Đàn Cổ Tranh (Trung Quốc)
Có lẽ, ai trong chúng ta cũng từng nhầm lần 2 loại đàn này vì thoạt nhìn nó khá giống nhau. Và đàn ở Việt Nam của chúng ta cũng bắt nguồn từ Trung Quốc mà ra nên những ai không hiểu sâu về loại đàn này sẽ bị nhầm lẫn.
Bề ngoài tuy có vẻ giống nhau, nhưng đàn tranh việt nam và đàn guzheng có cấu tạo, thiết kế và kĩ thuật chơi có rất nhiều điểm khác nhau.
Âm Sắc :
- Âm thanh của Đàn cổ tranh TQ Guzheng: có phần giống tiếng nước suối róc rách mang tới cảm giác thánh thót .Tự nhiên mà thanh nhã chứ không dồn dập dung tục.
- Âm thanh của Đàn tranh Việt Nam có phần trong, cao và sáng có khả năng thể hiện tốt các giai điệu vui tươi, có một điều là đàn tranh Việt không thích hợp lắm với phong cách trầm hùng, khỏe mạnh.
Kỹ Thuật :
- Kỹ thuật chơi Đàn Guzheng là loại nhạc khí dùng để độc tấu, hòa tấu, đệm hát nhạc dân ca, dòng nhạc hiện đại, kết hợp với C-pop, nhạc Âu Mỹ,…
- Kỹ Thuật chơi Đàn Tranh Việt Nam thường được sử dụng để độc tấu, hòa tấu, đệm cho ngâm thơ, hát, tham gia trong các dàn nhạc tài tử, phường bát âm, dàn Nhã Nhạc và các dàn nhạc dân tộc tổng hợp.
Cấu tạo :
- Guzheng hiện đại có chiều dài chuẩn là 1m63 với 21 dây đàn được sắp xếp từ cao dần (dây 1) lên thấp dần (dây 21). Dây đàn là dây sắt, nhưng để phù hợp cho các dòng nhạc sau này, đàn tranh Trung Quốc đã được cải biên, bọc nylon các sợi dây đàn cốt để âm thanh trầm ấm và đanh hơn
- Đàn tranh Việt Nam hiện đại được biết đến phổ biến là những loại 16, 17 hay 19 dây. Khung đàn hình chữ nhật, dài 110 đến 120cm. Dây từ dây tơ sang dây cước (dây đồng) đến dây thép.
Bề mặt đàn :
- Trên mặt đàn guzheng CHỈ CÓ NHẠN ĐÀN các chốt vặn để lên tone dây đàn được thiết kế ở TRONG HỘC ĐÀN bên tay phải. Các bạn sẽ sử dụng một chiếc cần để kéo và một chiếc máy để chỉnh âm.
- Đàn tranh Việt Nam, các chốt này NẰM TOÀN BỘ TRÊN MẶT ĐÀN (đó là lý do vì sao các bạn thấy trên mặt đàn có hai dãy nhô lên, đấy chính là dãy nhạn + trục đàn).
Móng gảy đàn :
- Móng gảy đàn Guzheng thường sử dụng là móng nhựa, móng đồi mồi. Một bộ móng đầy đủ sẽ gồm 8 móng (4 ngón tay phải + 4 ngón tay trái). Nghệ sĩ khi biểu diễn sẽ dùng băng keo vải để quấn các móng gảy vào ngón tay.
- Móng gảy đàn tranh Việt Nam một bộ đầy đủ chỉ có 3 móng cho tay phải. Móng gảy đàn tranh Việt Nam thường được làm bằng inox hoặc đồi mồi, phần móng thường được thiết kế có khuôn đeo vào tay.
4. Lịch Sử
Lịch sử của đàn cổ tranh kéo dài từ lịch sử Trung Quốc thời kỳ đầu. Đó là một trong những nhạc cụ có dây quan trọng nhất được tạo ra ở Trung Quốc, trước khi đàn cổ tranh ra đời, người Hoa đã chế tạo ra đàn sắt, có âm vực rộng tới 5 quãng tám.
Đàn sắt là một nhạc cụ rất phổ biến trong thời Tây Chu và thời Xuân Thu. Các mẫu vật còn sót lại đã được khai quật từ những nơi như tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam và khu vực Giang Nam của Trung Quốc. Những nơi khác bao gồm Giang Tô, An Huy, Sơn Đông và Liêu Ninh. Ở Hồ Bắc, lăng mộ của Tăng Hầu Ất (cuối thập niên 400 trước Công nguyên) là một kho báu của các nhạc cụ cổ xưa của Trung Quốc, bao gồm một bộ hoàn chỉnh của biên chung (chuông đồng), đàn sắt và đàn cổ cầm, chuông đá (biên khánh) và trống.
Đoàn tùy tùng âm nhạc của ông gồm 21 cô gái và phụ nữ cũng được chôn cất cùng ông. Vào thời Chiến Quốc, các loại cổ tranh ban đầu đã xuất hiện, được phát triển từ đàn sắt.
Vì vậy, đôi khi người ta nói rằng cổ tranh về cơ bản là một phiên bản nhỏ hơn và đơn giản hơn đàn sắt rất nhiều. Đàn sắt cũng được trưng bày ở các bảo tàng lịch sử và dân tộc ở Trung Quốc, nhiều nghệ nhân cũng chơi loại đàn này và nếu như có bán ra thị trường thì giá của đàn sắt vô cùng đắt đỏ so với cổ tranh.
Chính vì vậy đàn sắt vô cùng hiếm đưa vào sử dụng trong dàn nhạc dân tộc để hoà tấu nên đàn sắt luôn trở thành thứ bị quên lãng. Theo truyền thuyết, Phục Hy đã tạo ra đàn sắt. Và do đó, người ta tin rằng vào thời nhà Hạ, sắt cầm đã ra đời. Cũng có nhiều đề cập trong văn học Trung Quốc, như trong Kinh Thư (Cổ điển của thơ ca) và Luận ngữ của Khổng Tử. Sắt cầm luôn là một nhạc cụ cao cấp. Ngay từ thời nhà Chu, nó đã được sử dụng để chơi nhạc theo nghi thức để cúng tế.
Từ đó cổ tranh đã trải qua nhiều thay đổi trong lịch sử lâu dài của nó. Mẫu vật lâu đời nhất được phát hiện là đàn tranh 14 dây và có niên đại khoảng 500 năm TCN, có thể trong thời Chiến Quốc (475 năm trước Công nguyên). Cổ tranh trở nên nổi bật trong triều đại Tần (221 Tái 206 TCN). Vào thời nhà Đường (618 TCN), cổ tranh có thể là nhạc cụ được chơi phổ biến nhất ở Trung Quốc lúc bấy giờ.
Có nhiều tài liệu khác nhau về cách cổ tranh xuất hiện. Cổ tranh Trung Quốc được phát minh bởi Mông Điềm, một vị tướng của triều đại Tần (221-206 trước Công nguyên), chịu ảnh hưởng lớn từ đàn sắt. Do đàn sắt tuy có 50 dây nhưng trọng lượng của nó vô cùng nặng nên Mông Điềm mới nghĩ ra một loại nhạc cụ tương tự đàn sắt với kích thước nhỏ hơn đàn sắt, dễ di chuyển và không quá khó khăn khi mang vác, ông gọi thứ đàn đó là đàn tranh hay cổ tranh.
Một số người tin rằng cổ tranh ban đầu được phát triển dưới dạng đàn tam giác bằng tre như được ghi lại trong thuyết văn giải tự, sau đó được thiết kế lại và làm từ những tấm gỗ cong lớn hơn và những con nhạn của đàn có thể di chuyển. Một truyền thuyết thứ ba nói rằng xuất hiện khi hai người song tấu với đàn cổ tranh loại 25 dây. Họ đã cải tiến nó thành 16, 17, 18 và 21 dây. Dây đã từng được làm bằng lụa, nhưng dây bằng lụa ngày nay chỉ có dòng đàn tranh của Triều Tiên mới sử dụng.
Trong triều đại nhà Thanh (1644-1912 CE), các dây này chuyển sang dây đồng thau. Dây hiện đại hầu như luôn được bọc thép bằng nylon. Được giới thiệu lần đầu tiên vào những năm 1970, các dây đàn đa vật liệu này đã tăng âm lượng của nhạc cụ trong khi vẫn duy trì âm sắc chấp nhận được. Tại Trung Quốc, có ít nhất nửa tá phong cách chơi cổ tranh theo trường phái khu vực riêng biệt; niên đại ít nhất là từ thời nhà Đường, tức là hơn 1.000 năm trước, có hai phong cách chơi đàn tranh riêng biệt: đàn tranh (弹筝, tức gảy đàn tranh với móng giả) và sưu tranh (搊筝 - chơi đàn tranh bằng đầu ngón tay).
Các hoạ tiết trên cổ tranh bao gồm nghệ thuật chạm khắc, sơn mài chạm khắc, khảm xà cừ, tranh, thơ, thư pháp, chạm khắc vỏ (ngọc) và pháp lam.
Phong cách chơi trước tiên được phân chia giữa miền Bắc và miền Nam trước khi được chia nhỏ thành các trường khu vực cụ thể. Các trường phái trong khu vực là một phần của phong cách phương Bắc bao gồm Hà Nam, Thiểm Tây, Sơn Đông và Chiết Giang. Các trường phái trong khu vực được bao gồm trong phong cách miền Nam bao gồm Triều Châu, Phúc Kiến và Khách Gia.
Cũng từ đàn sắt và đàn cổ tranh mà người Trung Quốc còn chế tạo ra hai loại đàn là đàn trúc (筑) do Cao Tiệm Ly chế tác, sử dụng một que để gõ vào dây đàn tương tự đàn tam thập lục, một tay dùng ngón để nhấn dây đàn (chi gõ). Đôi khi đàn trúc cũng được dùng 2 que gõ, ban đầu đàn trúc cũng chỉ vỏn vẹn 5 dây và không có con nhạn như cổ cầm, sau đó được mắc thêm con nhạn và kể từ đó đàn trúc có ba loại: 5 dây, 12 dây và 20 dây (phái trúc - 沛筑) ; ngưu cân cầm (牛筋琴) cũng thuộc đàn tranh chi gõ là loại đàn tranh kích thước từ nhỏ cho tới lớn như đàn sắt, sử dụng que tre để gõ tương tự đàn trúc.
Thân đàn hình chữ nhật lớn và nó chuyên trị dòng nhạc dân ca ở Ôn Châu, Triết Giang và đàn yết tranh (轧筝) có từ thời nhà Đường, sử dụng cây vĩ để kéo (chi kéo) mà du nhập vào bán đảo Triều Tiên trở thành đàn ajaeng (hangul:아쟁, Hanja:牙; Hán Việt: nha tranh). Riêng với người Choang, yết tranh của họ được gọi là tranh ni (琤尼) hay toả cầm (挫琴), nhỏ hơn yết tranh và văn chẩm cầm (文枕琴) - yết tranh cỡ nhỏ chỉ vỏn vẹn 9 dây. Tuy nhiên thì văn chẩm cầm không dùng từng con nhạn rời rạc mà dây đàn của văn chẩm cầm được mắc bới một cầu đàn hình vòng cung. Nếu yết tranh Trung Quốc cũng như ajaeng Triều Tiên kéo theo phương nằm ngang khi đặt đàn thì văn chẩm cầm và tranh ni được đặt dọc để chơi, giống như kéo đàn cello. Cũng chính vì thế mà họ đàn tranh Châu Á ngày càng trở nên phong phú.
Ngưu cân cầm là đàn tranh dùng que gõ truyền thống ở tỉnh Chiết Giang, trong đó huyện Bình Dương là cái nôi ra đời của nhạc cụ này. Trước đây, dây đàn được làm từ gân bò, trải qua công đoạn rửa sạch, lấy gân từ xương bò, tách sợi, phơi khô nhưng ngày nay ngưu cân cầm hầu như sử dụng dây cước hay nhựa tổng hợp. Về giá trị bảo vệ, ngưu cân cầm có giá trị trong lịch sử, văn hóa, thực tiễn và sự khéo léo. Về mặt giá trị lịch sử, nó đã được phát triển thành công vào thời Quảng Đông kể từ thời nhà Thanh và có lịch sử hơn 100 năm.
Toả cầm - đàn tranh dùng vĩ, cùng họ với yết tranh và văn chẩm cầm trong họ đàn tranh, chi kéo. là một nhạc cụ cổ xưa và đặc biệt, chỉ được tìm thấy ở Thanh Châu. Nguồn gốc của nghệ thuật đàn tỏa cầm Thanh Châu liên quan đến nguồn gốc của âm nhạc dây Trung Quốc và thậm chí cả thế giới của âm nhạc có dây. Nó có giá trị lịch sử cao để nghiên cứu sự phát triển của âm nhạc cổ đại. Vào ngày 10 tháng 12 năm 2008, hội nghị chuyên đề Thanh Châu tỏa cầm do Nhạc viện Trung Quốc tổ chức đã được tổ chức tại Bắc Kinh, đã thu hút sự chú ý mạnh mẽ từ ngành công nghiệp âm nhạc về một nhạc cụ đã biến mất trong lịch sử nhạc cụ Trung Quốc cổ đại. Tỏa cầm Thanh Châu đã được tái phát hiện và vẫn có một di sản kỹ năng sống động, làm cho lịch sử của các nhạc cụ dây Trung Quốc sớm hơn 1500 năm so với ở phương Tây. Đàn tranh này có thể nói là có nghĩa là "hóa thạch sống". Loại toả cầm được sử dụng phổ biến nhất ở Thanh Châu là toả cầm sử dụng dây kép.
Đàn tranh của người Triều Châu Trung Quốc gồm có hai loại: truyền thống (传统) và cách tân (革新); có ý kiến cho rằng nó được sản xuất năm 1800 tại Quảng Châu, Trung Quốc. Loại này được thiết kế theo phong cách thời nhà Tống. Đàn tranh Việt Nam cũng ảnh hưởng rất nặng từ loại đàn tranh Triều Châu truyền thống: có trục đàn và dây bằng thép mảnh, trong khi loại cách tân chốt dây được giấu trong hộp điều âm.
Đàn tranh Triều Châu ảnh hưởng mạnh tới các trường phái lớn của hệ thống trường phái đàn tranh Trung Quốc. Âm nhạc Triều Châu là một trong những loại nhạc dân gian cổ xưa của Trung Quốc, chủ yếu lan rộng ở phía đông Quảng Đông, miền nam Phúc Kiến, Đài Loan, Hồng Kông và Ma Cao và những nơi người Triều Châu sống ở các nước Đông Nam Á.
Nó có một lịch sử lâu dài, nền tảng đại chúng của nó là vững chắc và sâu sắc, và tiết mục của nó khá phong phú. Có hàng ngàn âm nhạc hiện có. Với sự thay đổi của lịch sử, âm nhạc Triều Châu đã hình thành những đặc trưng và phong cách nghệ thuật độc đáo. Đây là một phần không thể thiếu trong kho tàng văn hóa nghệ thuật và là một di sản âm nhạc dân gian có giá trị. Nhạc phẩm Hàn nha hí thủy (寒鸦戏水) được cho là kinh điển khi chơi với đàn tranh Triều Châu dây thép.
Như vậy, niên đại về đàn tranh Trung Quốc cũng cho thấy qua từng thời kỳ và từng triều đại Trung Hoa mà hậu nhạc sơn (后岳山) và đuôi đàn (琴尾 cầm vĩ) của đàn tranh có sự biến đổi khác nhau theo thời gian. Loại cổ tranh ngày nay của Trung Quốc có tiền nhạc sơn dạng chữ S gợn sóng, hoặc chữ C,...
Với độ dài lịch sử của loại đàn này thì nó đã cho ra rất nhiều biến thể ở các nước khác nhau trong khu vực châu Á. Nếu có thể chúng ta có thể thử và học qua loại đàn này. Nó rất là thú với âm sắc rất đặc biệt của nó. Mong rằng qua bài viết này sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn phần nào đó về loại đàn cổ tranh này.
Nguồn hình ảnh: https://nanaluvsj.wordpress.com/ https://thanhnien.vn/ https://dotruong.vn/ https://nhaccuphongvan.vn/
Tác giả bài viết: Huỳnh Sơn YT
Học viên Thầy Đoàn Nhược Quý
Comentários